Về người Hàn, đã có nhiều bài viết và sách của các tác giả nước ngoài và Korea. Ở Korea, đáng chú ý là các công trình của Choi Ch’oe Sok (1976), Jun Tae Rim (1964), Kim Jae Un (1992), Ko Yong Buk (2001)… Các tác giả bàn về tính cách người Hàn thường đi theo hướng nêu lên một danh sách các ưu điểm và nhược điểm.

Tính cách người Hàn Quốc

Ch’oe Nam Son (1946) nêu ra “tam ưu tứ khuyết” (삼우사결 = 三優四缺).

Tam ưu là:
1) chủ nghĩa lạc quan;
2) tình yêu thuần khiết;
3) sự kiên trì, bền bỉ và dũng cảm.

Còn tứ khuyết là:
1) chủ nghĩa hình thức thái quá;
2) chủ nghĩa bảo thủ suy thoái;
3) thiếu sự đoàn kết, thống nhất, hay sự sắp xếp tổ chức;
4) thiếu chính xác, và có khuynh hướng chắp vá dàn xếp qua quýt dễ dãi (Kim Jae Un 1992: 32-33).

Trên cơ sở tổng hợp các tài liệu xưa nay, Ko Yong Buk trong cuốn “Tính cách của người Hàn: bàn về sự cải cách” (고영복. 한국인의 성격 – 그 변혁을 위한 과제. 사회문화소) xuất bản năm 2001 đã liệt kê ra 23 ưu điểm và 22 nhược điểm. Còn Pak Young Sun trong cuốn “Luận Văn hoá Hàn Quốc ” (박영순. 한국문화론. 한국문화사) xuất bản năm 2002 (tr. 57-58, 68-69) thì nêu ra 28 đặc trưng tạo nên tính cách người Hàn.

Thực ra, văn hoá và tính cách của dân tộc luôn là một hệ thống, nó bị chi phối bởi những yếu tố khách quan và chủ quan thuộc môi trường tự nhiên và môi trường xã hội mà dân tộc đó tồn tại và trải qua. Theo chúng tôi, nguồn gốc của văn hoá Hàn chủ yếu được quy định bởi ba yếu tố.

Thứ nhất, xét về môi trường sống thì Korea ở vào một khu vực có khí hậu ôn đới với mùa đông lạnh giá, với địa hình tới 70% là núi đá, đất đai trồng trọt được rất ít và manh mún, trồng lúa nước được lại càng ít nữa, nói chung là một môi trường sống khắc nghiệt.
Thứ hai, xét về nguồn gốc dân tộc như một trong những nguồn gốc của tính cách thì tổ tiên người Hàn hiện đại là cư dân thuộc ngữ hệ Altai (cùng họ với các cư dân nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, Mông Cổ, Tungus), ít nhiều mang trong mình chất du mục của dân săn bắn và chăn nuôi Siberia, nói chung là mang nhiều chất động hơn là tĩnh.
Thứ ba, xét về loại hình kinh tế chủ yếu thì bắt đầu từ thời kỳ đồ đồng (khoảng từ tk 8 đến tk 4 trCN), nghề nông nghiệp lúa nước vốn bắt nguồn từ khu vực Đông Nam Á cổ đại phía nam sông Dương Tử qua cư dân Hoa Hạ ở lưu vực sông Hoàng Hà đã thâm nhập vào bán đảo Korea và từ đó trở thành loại hình kinh tế chủ yếu trong suốt trường kỳ lịch sử Korea.

Yếu tố thứ ba (loại hình kinh tế nông nghiệp lúa nước) là nguồn gốc của những đặc trưng âm tính trong tính cách người Hàn, còn hai yếu tố đầu là nguồn gốc của những đặc trưng dương tính. Tất cả tạo nên một hệ thống với bảy đặc trưng điển hình.

(1) Lối sống trọng tình (jong = 정 = 情),
(2) Khả năng linh cảm cao (nunch’i = 눈치)
(3) Tính trọng thể diện (ch’ae-myon = 체면 = 體面).
(4) Chủ nghĩa gia đình và tính tôn ti.
(5) Tính nuốt “hận” (han = 한 = 恨)
(6) Tính nước đôi vừa âm tính vừa dương tính
(7) Lối làm việc cần cù và khẩn trương.

Mọi ưu điểm và nhược điểm khác trong tính cách Hàn đều chỉ là hệ quả của bảy đặc trưng này.

Hệ thống bảy đặc trưng tính cách của người Hàn Quốc

Trong ba nguồn gốc của tính cách dân tộc Korea thì tuy chỉ có một nguồn gốc thứ ba (nghề nông nghiệp lúa nước) thiên về âm tính, song nó có ảnh hưởng rất mạnh, tác động đến sự hình thành sáu trên bảy đặc trưng tính cách Korea. Như vậy, cấu trúc của tính cách dân tộc Korea là có âm có dương khá hài hoà.

Tính cách người Hàn Quốc so sánh với người Việt Nam

Xét về nguồn gốc tính cách thì người Việt và người Hàn có hai điểm khác nhau và một điểm giống nhau.

Xét về môi trường sống như một nguồn gốc của tính cách thì hai dân tộc khác sống trong những môi trường hẳn nhau. Trong khi Korea sống trong môi trường sống khắc nghiệt với khí hậu ôn đới lạnh giá và địa hình núi đá, thì Việt Nam ở vào khu vực có môi trường sống thuận tiện, với khí hậu nhiệt đới nóng ấm và địa hình sông nước, có đất đai trồng trọt nhiều và trồng được quanh năm.
Xét về nguồn gốc của dân tộc như một nguồn gốc khác của tính cách thì người Việt và người Hàn lại càng khác nhau. Trong khi tổ tiên người Hàn hiện đại là cư dân mang trong mình chất động của dân săn bắn và chăn nuôi Siberia thuộc ngữ hệ Altai, thì tổ tiên người Việt lại mang nhiều chất tĩnh của cư dân thuộc ngữ hệ Nam Á, ngay từ đầu đã sống chủ yếu bằng hái lượm và sớm chuyển sang nông nghiệp, rồi nông nghiệp lúa nước.
Cuối cùng, xét về loại hình kinh tế chủ yếu thì cả hai dân tộc đều có chung một nguồn gốc là sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp lúa nước. Xét rộng ra về mặt văn hoá thì trong lịch sử, hai dân tộc còn có một điểm chung quan trọng là cùng nằm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của văn hoá Trung Hoa, nhưng điểm chung này xuất hiện muộn nhất nên hầu như thường ảnh hưởng đến sự hình thành tính cách dân tộc.

Như vậy, so sánh về nguồn gốc của tính cách hai dân tộc ta thấy bức tranh như sau:

Ở trên đã nói rằng trong ba nguồn gốc của tính cách dân tộc Hàn thì tuy chỉ có một nguồn gốc thứ ba (nghề nông nghiệp lúa nước) thiên về âm tính, song nó có ảnh hưởng rất mạnh, do vậy cấu trúc của tính cách dân tộc Korea là có âm có dương khá hài hoà. Trong khi đó thì cả ba nguồn gốc của tính cách dân tộc Việt Nam đều thiên về âm tính, do vậy, cấu trúc của tính cách dân tộc Việt Nam thiên hẳn về âm.
Sự đồng nhất và khác biệt về ba nguồn gốc nêu trên quy định sự đồng nhất và khác biệt về hệ thống các đặc trưng tính cách.
Do chỗ nguồn gốc thứ ba (nghề nông nghiệp lúa nước) là chung cho cả hai dân tộc nên dễ hiểu là ba đặc trưng tính cách đầu (lối sống trọng tình, khả năng linh cảm cao, tính trọng thể diện) của hai dân tộc là giống nhau (hẳn nhiên, sự giống nhau này chỉ là tương đối, trong cái giống nhau vẫn có sự khác biệt, song ở đây tạm thời chưa nói đến những sự khác biệt này).
Theo: Xuất Khẩu Lao Động Halo / Học Ngoại Ngữ Miễn Phí